PHONG THỦY NĂM GIÁP NGỌ (2014)

Năm GIÁP NGỌ, với Thiên Can GIÁP (MỘC) sinh Địa Chi NGỌ  (HỎA), tức là Thiên Can phải sinh cho Địa Chi. Vì NGỌ là chỗ cực vượng của HỎA (còn gọi là Đế Vượng), lại được GIÁP sinh, nên là năm HỎA vượng. Do đó dễ nảy sinh những tranh chấp, xung đột, dẫn đến tình hình căng thẳng  hoặc chiến tranh. Tuy nhiên, vì Thiên Can phải sinh cho Địa Chi, nên nếu có chiến tranh thì những nước lớn mạnh thường nắm phần thất bại, hay bị thiệt hại nặng, và khó lòng đạt được mục đích mong muốn.

Chẳng hạn như vào năm 1954 (GIÁP NGỌ), Pháp bị đại bại ở Điện biên Phủ, mặc dù đang là 1 đế quốc mạnh vào thời kỳ đó. Tuy nhiên, vì hiện tại đang là vận 8 Hạ nguyên, nên nếu có chiến tranh thì quy mô và mức độ cũng không bằng những năm GIÁP NGỌ thuộc Thượng Nguyên hay Trung nguyên được.

 

Và cũng vì đây là năm mà Thiên Can phải sinh cho Địa Chi, nên những nhà lãnh đạo cần phải khéo léo, hoặc khoan dung, nới lỏng việc cai trị thì xã hội mới được trật tự, yên ổn. Ngược lại, nếu chỉ biết dùng luật lệ cứng rắn, hoặc gia tăng mức độ đàn áp, uy hiếp thì dễ gặp phải nhiều cuộc chống đối hay nổi loạn, thậm chí có thể bị lật đổ. Do đó, mức độ biến động về chính trị và xã hội trong năm nay sẽ mạnh hơn năm vừa qua.

Về phương diện kinh tế, trong khoảng nửa đầu năm 2014 kinh tế của hầu hết mọi quốc gia trên thế giới vẫn tiếp tục trì trệ hoặc suy thoái, nhưng đến nửa cuối năm sẽ bắt đầu phục hồi và tiến triển khá hơn. Những ngành kinh tế vẫn tiếp tục suy thoái trong năm nay là khai thác kim loại, quặng mỏ, cơ khí, chế tạo máy móc, mua bán, đầu tư vào quý kim (vàng, bạc…), du lịch, thủy sản, hàng hải. Những ngành có triển vọng phục hồi là địa ốc, khai thác, chế biến lâm sản. Những ngành ổn định, hoặc vẫn có khả năng phát triển mạnh là y tế, nghiên cứu, khoa học, kỹ thuật quân sự, dầu hỏa, khí đốt, năng lượng.

Năm 2014 sẽ là năm khí hậu ẩm thấp, mưa nhiều, gió lớn, khiến cho sông suối tràn đầy, nước chảy mạnh mà làm cho đất đai bị sụp lở ở nhiều nơi. Hơn nữa, vì là năm HỎA vượng, nên những thiên tai như động đất, núi lửa cũng sẽ xảy ra nhiều hơn. Mùa Xuân gió nhiều, mưa ít, khí hậu hàn lạnh. Mùa Hạ nóng dữ, mưa nhiều. Đến mùa Thu khí hậu thay đổi thất thường, nên mưa càng nhiều. Qua mùa Đông khí mát lạnh, hơi nước, sương mù xuất hiện nhiều.

Về phương diện sứs khỏe, vì là năm khí hậu ẩm thấp, nên nhiều người mắc phải những bệnh như thận suy, tỳ vị hư yếu, bụng đau, da vàng, thân thể nặng nề, chân tay hàn lạnh, bại liệt không nhấc lên được, đau trong gân, bắp thịt và các đốt xương. Hơn nữa, vì năm nay HỎA vượng, nên những bệnh đau tim, đột quỵ (đứt mạch máu não), hen suyễn, ho ra máu, mắt đỏ, mờ, khí uất ở trên mà gây sạn thận, bí tiểu bên dưới cũng thường xuất hiện, nhất là trong mùa Hạ.

Ngoài ra, còn phải để ý đến phương vị của Phi tinh, Thái Tuế, Tuế Phá và Tam Sát, như sẽ lần lượt được trình bày bên dưới.

1/ PHƯƠNG VỊ CỦA PHI TINH: là vị trí của 9 sao, di chuyển theo từng năm trên Lạc thư. Vào năm GIÁP NGỌ, mỗi sao sẽ đóng tại 1 khu vực như hình dưới.

 

Niên tinh năm GIÁP NGỌ (2014)

 

Năm nay, chỉ có niên tinh số 9 là bị Phản ngâm (tức nằm ở khu vực đối diện với địa bàn nguyên thủy của nó), lại đi cùng với Tam sát và Tuế Phá, cho nên đây là khu vực xấu nhất trong năm. Niên tinh số 8 gặp Thái Tuế, nên những tính chất tốt hoặc xấu của nó sẽ tăng lên gấp bội. Còn những niên tinh khác thì tính chất chỉ bình thường như mọi năm mà thôi.

Sao NHẤT BẠCH (số 1) – đến phía TÂY NAM (từ 202 độ 6 – 247 độ 5): Là cát tinh, chủ về công danh, khoa bảng, học vấn, những chuyện vui vẻ, có hỷ sự như hôn nhân, xum họp, thành công trong mọi việc… Tuy nhiên, không phải tất cả mọi nhà hướng TÂY NAM năm nay đều phát khoa bảng, hoặc được thăng quan, tiến chức, mà cần phân biệt như sau:
* VÀO Ở TRƯỚC NĂM 2004:
a/ Nhà hướng MÙI (từ 207 – 213 độ): tài lộc hao tổn nặng, công việc làm ăn thất bại, lại còn dễ bị họa Đào hoa, gia đạo suy bại. Các tháng xấu là 2, 3, 5, 9, 11 và 12 âm lịch.
b/ Nhà hướng KHÔN (từ 222 – 228 độ) và THÂN (từ 237 –243 độ): tài lộc tương đối đỡ hơn, nhưng dễ gặp tai họa, bệnh tật, hoặc vướng vào chuyện trai gái như trường hợp trên.
* VÀO Ở SAU NĂM 2004:
a/ Nhà hướng MÙI (từ 203 – 217 độ): dễ bị hao tài vì những chuyện hiếu hỷ, nhưng tài lộc vẫn ổn định. Các tháng 8, 9 âm lịch là lúc hao tài nhiều nhất, nhưng các tháng 6, 7 lại có thêm thu nhập.
b/ Nhà hướng KHÔN (từ 218 – 232 độ) và THÂN (từ 233 –247 độ): tài lộc hao tổn, lại  dễ mắc bệnh về thận, tai, bàng quang, tử cung hay buồng trứng. Các tháng  xấu là 1, 4, 5, 8, 9 và 10 âm lịch.
Mọi nhà hướng TÂY NAM đều dễ mắc bệnh trong các tháng 1, 4 và 10 âm lịch.

Với nhà thuộc các hướng khác, nhưng phía TÂY NAM có sao Nhất Bạch tới thì nơi đó phải có sinh, vượng khí của Hướng tinh mới nên kích hoạt hay tu sửa để được tăng tài, tiến chức. Còn nếu nơi đó có suy, tử khí (cũng của Hướng tinh) thì cần giữ cho yên tĩnh, chứ không nên tu sửa hay kích hoạt, vì sẽ gặp tai họa, bệnh tật.
Với nhà có cửa phòng ngủ, bếp, cầu thang, phòng tắm tại phía TÂY NAM của căn nhà (hay phòng ngủ) cũng cần phối hợp với trạch vận của căn nhà (hay căn phòng) như trên để biết nên kích hoạt, hay giữ cho yên tĩnh.

Sao NHỊ HẮC (số 2) – đến phía ĐÔNG (từ 67 độ 6 – 112 độ 5): Chủ đem đến nhiều bệnh tật, nếu nặng có thể làm chết người, nên thường được gọi là sao Bệnh phù. Hơn nữa, Nhị Hắc vốn còn là âm tinh, và thuộc Tiên thiên Hỏa, nên tùy trường hợp riêng biệt của mỗi căn nhà mà còn có thể gây ra tai họa xung đột, tranh chấp, nóng nảy. Do đó, cần treo windchime (chuông gió), hay đặt những vật bằng kim loại gần cửa trước mà hóa giải. Nhất là năm nay sao Nhị Hắc đến phía Đông, cùng với địa bàn tạo thành trường hợp  “Đấu ngưu sát”, nên càng dễ gây ra những chuyện tranh chấp, xung đột. Tuy nhiên, cũng cần phân biệt những trường hợp tốt, xấu như sau:
* VÀO Ở TRƯỚC NĂM 2004:
a/ Nhà hướng GIÁP (từ 68 – 82 độ): có tranh chấp, xung đột lớn dẫn tới kiện tụng, bị hao tài nặng, công việc làm ăn gặp nhiều khó khăn, cũng như dễ mắc bệnh về bao tử và đường ruột, bắp thịt. Ngoại trừ những nhà có ngã 3, ngã 4, lối vào nhà… nằm ở khu vực phía ĐÔNG BẮC của căn nhà thì tai họa nhẹ hơn, cũng như tài lộc vẫn ổn định. Các tháng xấu là 2, 4, 5, 7, 8, 9 và 11 âm lịch.
b/ Nhà hướng MÃO (từ 83 – 97 độ) và ẤT (từ 98 – 112 độ): bị hao tài nặng, công việc suy bại, lại còn dễ gặp chuyện nóng nảy, xung đột, cũng như những bệnh về ung thư, hay tim mạch và máu huyết. Các tháng xấu là 2, 4, 5, 7, 9 và 11 âm lịch.
* VÀO Ở SAU NĂM 2004:
a/ Nhà hướng GIÁP (từ 68 – 82 độ): công việc và tài lộc thăng tiến, thuận lợi. Các tháng tốt là 2, 5, 7, 8 và 11 âm lịch.
b/ Nhà hướng MÃO (từ 83 – 97 độ) và ẤT (từ 98 – 112 độ): bị hao tài, công việc gặp nhiều khó khăn, dễ bị đàn bà quấy rối, lại hay mắc bệnh tật về bao tử, đường ruột, bắp thịt. Ngoại trừ những nhà có ngã 3, ngã 4, lối vào nhà… nằm ở khu vực phía ĐÔNG BẮC của căn nhà thì tai họa nhẹ hơn, tài lộc vẫn ổn định. Các tháng xấu là 2, 3, 4, 5, 6, 8 và 11 âm lịch.
Mọi nhà hướng ĐÔNG đều dễ bị bệnh trong các tháng 2, 5 và 11 âm lịch. Riêng tháng 4 còn bị xích mích, xung đột.

Với nhà không thuộc hướng ĐÔNG thì khu vực đó chỉ cần giữ cho yên tĩnh là có thể tránh được tai họa. Nếu nơi đó là cửa phòng, cầu thang, bếp, phòng tắm… thì tùy thuộc vào phi tinh của trạch vận mà kích động (như đã nói trong phần niên tinh Nhất Bạch ở trên), hoặc dùng phương thức hóa giải cho bớt tai họa.

Sao TAM BÍCH (số 3) – đến phía ĐÔNG NAM (từ 112 độ 6 – 157 độ 5): Biểu hiện cho sự hung hăng, hiếu chiến, thích tranh đấu, nên khi tới đâu cũng thường gây ra xung đột, cãi vã, kiện tụng, mất mát tiền của. Tuy nhiên, với nhà hướng ĐÔNG NAM thì còn chia ra những trường hợp như sau:
* VÀO Ở TRƯỚC NĂM 2004:
a/ Nhà hướng THÌN (từ 113 – 127 độ): tài lộc hao tổn nhiều, công việc bế tắc, cũng như mắc bệnh tật về gân xương, tay chân, tai nạn xe cộ, dễ bị xung đột, tiểu nhân quấy rối hoặc bị trộm cắp. Cả năm chỉ có tháng 9 âm lịch là tương đối yên ổn mà thôi.
b/ Nhà hướng TỐN (từ 128 – 142 độ) và TỴ (từ 143 – 157 độ): tài lộc và công việc vẫn bị bế tắc, gia cảnh lụn bại, lại dễ mắc bệnh về bao tử, đường ruột và tay chân. Cả năm chỉ có các tháng 8 và 9 âm lịch là tương đối yên ổn.
* VÀO Ở SAU NĂM 2004:
a/ Nhà hướng THÌN (từ 117 – 123 độ): cũng tương tự như trường hợp (a) ở trên.
b/ Nhà hướng TỐN (từ 128 – 142 độ) và TỴ (từ 143 – 157 độ): tài lộc và công việc gặp nhiều may mắn, thuận lợi. Các tháng tốt nhất là 5, 7, 8 và 9 âm lịch.
Mọi nhà hướng ĐÔNG NAM đều dễ bị bệnh trong các tháng 3, 6 và 12 âm lịch. Riêng tháng 6 còn dễ bị cãi vã, xung đột.

Nếu nhà thuộc những hướng khác, nhưng phía ĐÔNG NAM có sao Tam Bích đến thì trạch vận nhà tại đó phải có sinh, vượng khí của Hướng tinh mới nên tu sửa hoặc động thổ. Còn nếu không thì nơi đó phải được giữ cho yên tĩnh để tránh mọi tai họa.
Nếu nơi đó là cửa phòng, bếp, phòng tắm, cầu thang…cũng phải phối hợp với trạch vận mới biết có thể phát huy sao Tam Bích, hay cần phải hóa giải nó.

Sao TỨ LỤC (Số 4) – nhập trung cung (khu vực giữa nhà): Là sao Văn Khúc, chủ về văn chương, thi cử, học vấn, danh tiếng. Nhưng năm nay nhập trung cung nên ảnh hưởng của nó đã giảm đi nhiều. Tuy nhiên, với nhà mà trung cung có những cặp số 2 – 7, 9 – 7 lại có Tứ Lục nhập vào thì gia đạo sẽ lục đục, dễ bị nóng giận hơn. Nhưng với nhà có cặp 1 – 6 mà gặp sao Tứ Lục thì uy tín, tên tuổi cũng sẽ được tốt hơn trong năm nay. Trong cả 2 trường hợp này đều có thể đặt thủy tinh cầu giữa nhà để hóa giải, hay kích hoạt sao Tứ Lục.

Sao NGŨ HOÀNG (số 5) – đến phía TÂY BẮC (từ 292 độ 6 đến 337 độ 5): Là sát khí độc hại nhất trong mọi niên tinh, nhưng năm nay đến phía TÂY BẮC thì lực của nó đã bị giảm đi 1 phần nào. Ngoài ra, cũng còn tùy vào trạch vận mỗi nhà mà xảy ra những trường hợp sau:
* VÀO Ở TRƯỚC NĂM 2004:
a/ Nhà hướng TUẤT (từ 297 – 303 độ): tài lộc có thể khá hơn năm trước, nhưng lại dễ bị  bệnh tật, nhất là về gan, mật, phổi và đường hô hấp. Các tháng xấu là 1, 3, 4, 5, 7, 8, 10 và 12 âm lịch.
b/ Nhà hướng CÀN (từ 312 – 318 độ) và HỢI (từ 327 – 333 độ): tài lộc hao tổn, lại dễ bị bệnh về mắt hoặc khí huyết, cũng như đường tiết niệu (đường tiểu). Các tháng xấu là 3, 5, 7, 8 và 12 âm lịch. Riêng nhà hướng HỢI (323 – 337 độ, chứ không chỉ trong độ số bên trên) nằm trong Tam sát (sẽ nói ở phần sau), nên tài lộc càng dễ hao tổn, cũng như bệnh tật nặng hơn nhà hướng CÀN.
* VÀO Ở SAU NĂM 2004:
a/ Nhà hướng TUẤT: công việc làm ăn tương đối tiến triển, thêm thu nhập bất ngờ. Các tháng 3, 4 và 12 âm lịch khá tốt. Nhưng lại dễ mắc bệnh, nhất là về thận, tử cung hoặc máu huyết. Các tháng xấu là 1, 2, 5, 8, 10 và 11 âm lịch. Nếu thiết kế nhà hay địa hình xấu thì con trai trong nhà còn mắc tai họa, thậm chí có thể bị yểu tử.
b/ Nhà hướng CÀN (từ 308 – 322 độ) và HỢI (từ 323 – 337 độ): tài lộc và công việc làm ăn khá, tăng thêm thu nhập, nhưng trong năm hay bị đau ốm hơn những năm trước. Các tháng tốt là 1, 2, 7, 10 và 12 âm lịch. Riêng nhà hướng HỢI (323 – 337 độ) cả về tài lộc lẫn sức khỏe đều kém hơn nhà hướng CÀN.
Mọi nhà hướng TÂY BẮC đều dễ bị bệnh trong các tháng 1, 5, 8 và 10 âm lịch.
Đối với nhà thuộc các hướng khác, nhưng phía TÂY BẮC có sao Ngũ Hoàng đến thì phải giữ cho nơi đó yên tĩnh, không thể tu sửa, động thổ, hay chặt cây lớn. Nếu nơi đó lại là phương tọa (phía sau) căn nhà thì càng không thể tu sửa được, vì sẽ mắc tai họa, bệnh tật, thậm chí có thể chết người, nếu lại làm trong cung HỢI, hay phạm vào tháng, ngày, giờ xấu, làm tăng thêm uy lực của Ngũ Hoàng và Tam sát.
Nếu phía TÂY BẮC là cửa phòng, bếp, phòng tắm, cầu thang…thì nên treo chuông gió, hay đặt kỳ lân bằng đồng mà hóa giải. Nếu phòng ngủ, phòng làm việc mà nằm ở phía TÂY BẮC của căn nhà thì nên dời sang phòng khác, nhất là nếu phòng hay giường ngủ lại nằm trong cung HỢI, bị cả Ngũ Hoàng và Tam sát cùng tới.

Sao LỤC BẠCH (số 6) – đến phía TÂY (từ 247 độ 6 – 292 độ 5): Là cát tinh, chủ về danh chức, uy quyền, cũng như có dính dáng đến chính quyền, luật pháp. Tuy nhiên, không phải mọi nhà hướng TÂY năm nay đều có thể thăng quan tiến chức, mà tùy theo sự phối hợp của nó với hướng nhà như sau:
* VÀO Ở TRƯỚC NĂM 2004:
a/ Nhà hướng CANH (252 – 258 độ): đại hao tán tài lộc, mọi sự đều bế tắc, gia cảnh suy bại, gặp nhiều bệnh tật hiểm nghèo, nhất là về phổi và đầu, mặt, cũng như ung thư. Các tháng xấu nhất là 1, 4, 5, 8 và 10 âm lịch.
b/ Nhà hướng DẬU (263 – 277 độ) và TÂN (278 – 292 độ): có xung đột, tranh chấp lớn, hoặc bị trộm cắp, hao tán tiền của. Các tháng xấu nhất là 4 và 5 âm lịch, tháng 1 và 10 tuy tạm yên ổn nhưng lại bị hao tiền.  
* VÀO Ở SAU NĂM 2004:
a/ Nhà hướng CANH  (252 – 258 độ): được tăng chút tài lộc, nhưng hay mắc tai họa về xe cộ, bệnh tật về gan, mật, chân tay hoặc gân xương. Những tháng xấu là 4, 5, 7, 8 và 9 âm lịch.
b/ Nhà hướng DẬU (263 – 277 độ) và TÂN (278 – 292 độ): bị hao tiền, công việc làm ăn vẫn không tiến triển như ý muốn , nhưng  do vận khí nhà tốt, nên vẫn vượt qua được mọi khó khăn, tài lộc ổn định. Các tháng  1 và 10 hao tiền khá nhiều, nhưng các tháng 2, 3, 11 và 12 sẽ có thêm thu nhập.
Tất cả nhà hướng TÂY đều dễ bị bệnh trong các tháng 6 và 9 âm lịch.

Đối với nhà thuộc các hướng khác, nhưng phía TÂY có sao Lục Bạch đến thì phải xem trạch vận nhà tại đó có các Vận – Sơn – Hướng tinh 1, 6 không? Nếu có mới nên đặt vật khí kích hoạt như hồ cá, fountain, tháp Văn Xương, chuông gió… để làm tăng tiến công danh, sự nghiệp, danh tiếng. Nếu gặp phi tinh khác thì tùy sự phối hợp của chúng với Lục Bạch mà kích hoạt, hay dùng cách hóa giải để giảm bớt tai họa.
Nếu nơi đó là cửa phòng, bếp, phòng tắm, cầu thang… cũng phải phối hợp với Phi tinh của trạch vận mới biết nên phát huy sao Lục Bạch, hay cần hóa giải nó.

Sao THẤT XÍCH (số 7) – đến phía ĐÔNG BẮC: (từ 22 độ 6 – 67 độ 5): Là tặc tinh, chủ côn đồ, trộm cướp, tiểu nhân quấy rối, rình rập, hãm hại. Nó đến đâu cũng chủ xung đột, chém giết, tù đày, mắc họa Đào hoa. Hơn nữa, Thất Xích là âm tinh, lại là Hỏa Tiên thiên, nên còn chủ nóng nảy, bực bội, dễ gây hỏa hoạn, hoặc những bệnh về tim mạch và khí huyết. Vì vậy, nơi nó đến cần phải giữ cho yên tĩnh, tránh xử dụng, hoặc ngủ hay làm việc. Nếu muốn xử dụng thì cần sơn cửa màu đen, hoặc trải thảm đen, treo thủy tinh cầu bằng pha-lê (crystal ball), đặt tê giác 2 sừng bằng thủy tinh… mà hóa giải. Tuy nhiên, cũng cần phân biệt như sau:
* VÀO Ở TRƯỚC NĂM 2004:
a/ Nhà hướng SỬU (từ 27 – 33 độ): tuy năm nay tài lộc được tăng thêm 1 chút, nhưng gia cảnh vẫn suy bại, lại có thể vướng vào chuyện nam – nữ mà bị nhiều tai tiếng hay xung đột lớn. Hơn nữa còn dễ mắc bệnh tật về chân tay, gân xương, hoặc tai nạn xe cộ. Các tháng xấu là 1, 2, 3, 5, 6, 10, 11 và 12 âm lịch. Một điều nữa là khu vực này năm nay bị cả Tam Sát đến, nên mức độ tai họa sẽ trầm trọng hơn, nhất là nếu còn đập phá, tu sửa, động thổ, chặt cây lớn tại đó thì có thể sẽ chết người, nếu lại phạm vào tháng, ngày, giờ xấu, làm tăng thêm uy lực của Thất Xích và Tam Sát.
b/ Nhà hướng CẤN (từ 38 – 52 độ) và DẦN (53 – 67 độ): mắc tai họa lớn, trong nhà có người chết, cũng như có xung đột lớn, con gái dễ mắc họa Đào Hoa. Các tháng xấu là 1, 3, 5, 6, 7, 8, 9, 10 và 12 âm lịch.
* VÀO Ở SAU NĂM 2004:
a/ Nhà hướng SỬU (từ 23 – 37 độ): bị hao tốn tài lộc, công việc làm ăn kém hơn năm trước, lại dễ mắc thị phi, xung đột, nhưng do vận khí tốt nên cuộc sống vẫn ổn định, vượt qua mọi khó khăn. Các tháng 2, 5, 6 và 11 âm lịch bị hao tiền hoặc xung đột, nhưng các tháng 1, 3, 4, 10 và 12 âm lịch lại được thêm thu nhập.
b/ Nhà hướng CẤN (từ 38 – 52 độ) và DẦN (57 – 63 độ): tài lộc hao tổn, công việc làm ăn suy thoái, lại hay mắc thị phi, xung đột, tiểu nhân hãm hại hoặc bị trộm cắp. Các tháng xấu là 1, 2, 3, 5, 6, 10, 11 và 12 âm lịch.
Tất cả nhà hướng ĐÔNG BẮC đều dễ mắc bệnh trong các tháng 1, 4 và 10 âm lịch.

Đối với nhà thuộc các hướng khác thì khu vực phía ĐÔNG BẮC nên để cho yên tĩnh, tránh đập phá, tu sửa, động thổ, nhất là tại khu vực cung SỬU như đã nói ở trên.
Với những người có cửa phòng ngủ, bếp, cầu thang, phòng tắm… nằm tại phía ĐÔNG BẮC căn nhà (hoặc căn phòng) thì cần kết hợp với phi tinh của trạch vận, rồi mới áp dụng cách hóa giải cho thích hợp. Riêng với phòng ngủ hoặc phòng làm việc mà nằm trong cung SỬU thì cách tốt nhất là nên dời đi nơi khác để tránh mọi tai họa.

Sao BÁT BẠCH (số 8) – đến phía NAM (từ 157 độ 6 – 202 độ 5): Vừa là cát tinh lẫn vượng tinh, chủ đem đến mọi sự thuận lợi, may mắn cho tài lộc, công danh, sự nghiệp. Nhất là năm nay, Bát Bạch lại đến phía NAM cùng với Thái Tuế, nên mọi tính chất tốt hay xấu của nó đều tăng lên gấp bội như những trường hợp dưới đây:
* VÀO Ở TRƯỚC NĂM 2004:

a/ Nhà hướng BÍNH (từ 158 – 172 độ): tài lộc tuy có khá hơn, nhưng lại mắc tai họa lớn, bệnh tật nặng về tim mạch, cao máu, đau bao tử, ung thư, cũng như khí huyết. Nếu thiết kế nhà hay địa hình xấu thì có thể chết người. Trong nhà cả năm bất an, chỉ có các tháng 3 và 12 âm lịch là tương đối yên ổn mà thôi.
b/ Nhà hướng NGỌ (từ 173 – 187 độ) và ĐINH (từ 192 – 198 độ): cũng tương tự như trường hợp nhà hướng BÍNH ở trên, nhưng chỉ mắc bệnh nặng về phổi hay đầu, mặt, và cũng có thể chết người.

* VÀO Ở SAU NĂM 2004:
a/ Nhà hướng BÍNH (từ 163 – 168 độ): tương tự trường hợp (a) ở trên.
b/ Nhà hướng NGỌ (từ 177 – 183 độ) và ĐINH (từ 192 – 198 độ): tài lộc và công việc đều thăng tiến mạnh, có uy tín tốt, vạn sự hanh thông. Những tháng tốt là 1, 2, 4, 5, 10 và 11 âm lịch.
Tất cả nhà hướng NAM đều dễ mắc bệnh trong các tháng 2, 8 và 11 âm lịch.

Đối với nhà thuộc các hướng khác, nhưng phía NAM có sao Bát Bạch đến thì nơi đó phải có sinh, vượng khí của Hướng tinh mới có thể tu sửa hay kích hoạt. Còn nếu chỉ có suy, tử khí thì cần phải giữ cho yên tĩnh, nếu tu sửa hay động thổ sẽ gặp tai họa lớn, thậm chí có thể chết người, hoặc tiêu tan hết sản nghiệp.
Nếu nơi đó là cửa phòng, bếp, phòng tắm, cầu thang…cũng phải phối hợp với Phi tinh của trạch vận mới biết nên phát huy, hay cần hóa giải nó.

Sao CỬU TỬ (số 9) – đến phía BẮC (từ 337 độ 6 – 22 độ 5): Là sao chủ về văn chương, danh tiếng, lại cũng là Sinh khí của vận 8, nên còn chủ may mắn trong công việc và tài lộc. Tuy nhiên, Cửu tử năm nay đến phía BẮC tức là bị Phản ngâm, lại đi cùng với Tam sát và Tuế Phá, nên những đặc tính tốt của nó đã bị giảm đi nhiều, còn những đặc tính xấu lại tăng lên như những trường hợp dưới đây:
* DỌN VÀO Ở TRƯỚC NĂM 2004:

a/ Nhà hướng NHÂM (từ 342 – 348 độ): công việc và tài lộc gặp nhiều khó khăn, trở ngại, nhưng cuối cùng vẫn vượt qua được. Các tháng 1 và 10 âm lịch hao tiền nhiều, các tháng 5 và 7 âm lịch gặp nhiều chuyện nóng giận, bực bội.

b/ Nhà hướng TÝ (từ 357 – 03 độ) và QUÝ (từ 12 – 18 độ): bị hao tán tiền của rất nhiều, công việc làm ăn lụn bại, lại còn bị bệnh tật nặng về tim, thận, phổi, máu huyết, hoặc ung thư, trong nhà có thể có người chết. Các tháng xấu là 2, 3, 5, 7, 8, 9, 11 và 12 âm lịch.

* DỌN VÀO Ở SAU NĂM 2004:
a/ Nhà hướng NHÂM (từ 342 – 348 độ): tương tự như trường hợp (a) ở trên.
b/ Nhà hướng TÝ (từ 357 – 03 độ) và QUÝ (từ 12 – 18 độ): tương tự như trường hợp (b) ở trên, ngoại trừ bệnh ung thư, cũng như mức độ nhẹ hơn.

Mọi nhà hướng BẮC đều dễ mắc bệnh trong các tháng 3, 9 và 12 âm lịch.

Với nhà thuộc các hướng khác, nhưng phía BẮC có sao Cửu tử đến cùng với Tam Sát và Tuế Phá, nên cần giữ cho yên tĩnh, không nên đập phá, tu sửa, động thổ, hay chặt cây lớn. Nếu nơi đó lại là phương tọa của căn nhà mà còn đập phá, tu sửa, động thổ…thì có thể chết người, nếu làm vào tháng, ngày, giờ xấu làm tăng thêm uy lực của Tam Sát và Tuế Phá.
Với những người có cửa phòng ngủ, bếp, phòng tắm, cầu thang ở phía BẮC căn nhà (hay phòng), thì cần phối hợp với Phi tinh của trạch vận, rồi mới dùng cách hóa giải cho thích hợp.

2/ THÁI TUẾ:

Năm nay, Thái Tuế đến phía NAM, cùng với niên tinh Bát Bạch, vì vậy không nên đập phá, tu sửa, động thổ, hay hoạt động náo nhiệt…, nhất là nếu trạch vận của căn nhà có suy, tử khí nơi đó.
Đối với nhà hướng NGỌ – ĐINH – dọn vào ở sau năm 2004 – năm nay Thái Tuế đến phía trước, mà trạch vận những nhà này đều đắc vượng khí tới hướng, nên không cần phải kiêng kỵ vấn đề Thái Tuế tới phía trước nhà.

Với người sinh năm TÝ, ngày TÝ, hay trong năm, tháng, ngày, giờ sinh có 2, 3, 4 TÝ mà ở nhà hướng NGỌ, đi cửa trước phương NGỌ, nhưng nếu nơi đó (cửa trước) đắc vượng khí thì không sao. Vì với trường hợp này thì nhà cửa (và trong số mệnh) đã có cứu giải. Còn với nhà phương NGỌ gặp suy, tử khí mà dùng cửa đó thì sẽ gặp tai họa khốc liệt xảy đến cho mình hoặc người thân (cha mẹ, chồng vợ, con cái…) hay có khi cả nhà bị thương vong. Cho nên, cách tốt nhất là dùng cửa khác để ra vào, hoặc dời đi ở tạm nơi khác, hay đi xa nhiều để giảm bớt tai họa.
Ngoài hướng nhà, còn cần để ý đến phương vị giường ngủ và bàn làm việc. Nếu chúng nằm ở phía NAM thì trừ khi nơi đó có sinh – vượng khí của Hướng tinh mới có thể tiếp tục dùng, còn nếu có suy, tử khí thì nên dời đi nơi khác.
Nếu phía NAM phòng ngủ, phòng làm việc có cửa phòng, bếp, phòng tắm, cầu thang… và có lối đi dẫn thẳng đến cửa phòng thì tùy theo trạch vận như thế nào mà dùng biện pháp hóa giải thích hợp.
Về việc xây cất, mua nhà, hay mở tiệm làm ăn… trong năm nay (GIÁP NGỌ) thì không nên chọn nhà tọa – hướng BÍNH, NGỌ hay ĐINH, ngoại trừ 1 số trường hợp đã có thiết kế hay địa hình hóa giải được những vấn đề phía trước có Thái Tuế, phía sau có Tam Sát, Tuế Phá và niên tinh Cửu tử Phản ngâm.

3/ TUẾ PHÁ:

Là khu vực đối diện với Thái Tuế. Vì năm nay Thái Tuế đến phía NAM, nên Tuế Phá đến phía BẮC. Trái ngược với khu vực Thái Tuế đến là có quá nhiều dương khí, nơi Tuế Phá đến chỉ toàn là âm khí, nên chủ đau yếu, chết chóc, trắc trở, thất bại trong công việc. Vì vậy, nơi đó cũng không nên đập phá, tu sửa, động thổ, ngủ nghỉ hay làm việc.
Đối với người sinh năm NGỌ, ngày NGỌ, hay trong năm, tháng, ngày, giờ sinh có 2, 3 hay 4 NGỌ mà đi cửa phương TÝ thì mọi sự đều bế tắc, gặp nhiều tai họa. Cách hóa giải là dùng cửa khác, hoặc đi xa nhiều, hay tạm ở nhà khác. Ngay cả đối với người tuy sinh vào năm, tháng, ngày, giờ khác, nhưng nếu nhà có cửa phương TÝ, mà thường dùng cửa này trong năm nay cũng sẽ gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong mọi công việc, vì ngoài Tuế Phá còn có Tam Sát và niên tinh Cửu tử Phản ngâm. Tuy nhiên, với nhà đắc vượng khí tại đây thì chỉ bị trắc trở, tai họa nhỏ, còn nếu bị thêm suy, tử khí thì mức độ tai họa sẽ trầm trọng hơn rất nhiều.
Nếu giường ngủ, bàn làm việc nằm tại phía BẮC thì sức khỏe kém, dễ bị bệnh tật, công việc gặp nhiều trở ngại, lại hay bị cấp trên hoặc quan quyền hãm hại, làm khó dễ… Vì vậy, cách tốt nhất vẫn là dời giường hoặc bàn làm việc đi nơi khác.
Nếu cửa phòng ngủ, phòng làm việc nằm tại phía BẮC thì cần phối hợp với trạch vận và phi tinh của căn nhà để xem nó tốt hay xấu, rồi mới dùng cách hóa giải cho thích hợp.

4/ TAM SÁT:

Năm nay đến phía BẮC (gồm các khu vực HỢI – NHÂM – TÝ – QUÝ – SỬU). Vì Tam Sát là chúa tể của âm khí, nên thường gây hình thương, chết chóc, bệnh tật nặng. Do đó, nơi nó đến cũng không được động thổ, tu sửa hoặc chặt cây (nhất là cây lớn). Nếu vẫn cứ làm thì nhẹ cũng bị tai họa, thương tích, nếu nặng có thể vong mạng.
Vì Tam Sát là chúa tể của âm khí, nên tối kỵ đến phía sau nhà. Tuy nhiên, không phải bất cứ nhà nào tọa BẮC (1 trong 5 khu vực kể trên) là đều sẽ gặp tai họa, mà chỉ những nhà có phòng ngủ và giường ngủ nằm trong khu vực của Tam sát mà thôi.
Cho nên, với người có phòng hay giường ngủ nằm trong những khu vực đó thì nên dời phòng, kẻo sẽ có tai họa thương tích, mổ xẻ, hay bệnh tật nặng có thể làm tổn thương đến tính mạng. Nhất là năm nay phía BẮC còn gặp thêm Tuế Phá, nên nếu không dời giường (hay phòng ngủ) thì sẽ khó tránh nổi tai họa.

Nếu là nhà hướng BẮC, năm nay bị Tam Sát và Tuế Phá cùng đến hướng, cộng với niên tinh Cửu tử Phản ngâm, nhưng nếu hướng nhà đắc vượng khí thì chỉ bị trở ngại, khó khăn nhỏ. Còn nếu hướng nhà bị suy, tử khí thì sẽ bị khó khăn, trở ngại lớn hay bệnh tật nặng, có thể đi tới tử vong như đã nói ở phần sao Cửu tử.

Một vấn đề nữa là tuy hướng nhà đắc sinh, vượng khí, nhưng nếu phía BẮC lại bị động thổ, tu sửa, chặt cây lớn trong năm nay thì sinh, vượng khí sẽ không địch nổi sát khí, cho nên tai họa vẫn đến, từ hao tiền, tốn của, trở ngại hoặc thất bại trong công việc, cho đến bệnh tật, tai họa, thậm chí có thể chết người. Còn tai họa nặng hay nhẹ, cũng như kéo dài bao lâu là tùy theo thời điểm, phương vị và mức độ động thổ, tu sửa gây ra.

Tóm lại, với Thiên Can phải sinh cho Địa Chi, năm GIÁP NGỌ (2014) là 1 năm mà các nhà lãnh đạo cần phải biết khoan hồng, cũng như chăm lo cho cuộc sống của người dân. Nó đi từ năm QUÝ TỴ là Thiên Can khắc Địa Chi, tức là năm trước đã mạnh tay, cứng rắn trong việc cai trị, khiến cho trong xã hội nảy sinh ra sự bất mãn, thì qua năm sau phải biết nhân nhượng, khéo léo mới tránh khỏi tình trạng “tức nước vỡ bờ” mà xảy ra những cuộc chống đối, nổi loạn. Đây cũng chính là 1 trong những ý nghĩa của 60 Hoa Giáp, không phải chỉ để dự đoán thời tiết, khí hậu, mùa màng… mà còn là cho những người lãnh đạo biết được quy luật của Tạo Hóa (đạo Trời) để có thể vạch ra phương thức hành động đúng đắn. Vì có như vậy mới giữ cho xã hội được thái bình, thịnh trị, cũng như bảo đảm cho sự trường tồn của đất nước, như Hưng đạo Vương đã nói “phải biết nới sức dân để làm kế rễ sâu gốc vững, đó mới là thượng sách giữ nước”. “Nới sức dân” không những chỉ là giảm thuế má, nới lỏng luật lệ, ban bố những chính sách phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của người dân (chứ không phải chỉ theo tư tưởng chủ quan của cá nhân mình, hoặc phe phái mình như kiểu Obamacare – hay cuộc cải cách bảo hiểm sức khỏe của TT Obama), mà còn phải tỏ ra anh minh, công bình, liêm chính, khoan nhân đối với người dân, biết đồng cam cộng khổ với họ, khiến cho đại đa số dân chúng ủng hộ và tin tưởng vào chế độ. Có như vậy thì không giặc thù nào xâm phạm đến đất nước mà không bị đánh cho “tháo chạy không dám quay đầu lại” (chích luân bất phản), như lời vua Quang Trung trong chiếu “Xuất quân” đánh quân Thanh vào đầu Xuân năm KỶ DẬU.

Thân mến,

Bình nguyên Quân